Sự thiếu hụt kiến thức về động lực của giáo viên và phụ huynh
Hầu hết giáo viên và phụ huynh đều nhận ra rằng động lực là chìa khóa của việc học. Hãy suy ngẫm một chút về giáo viên yêu thích của bạn ở trường trung học. Rất có thể đó là người có khả năng thúc đẩy động lực của bạn một cách hiệu quả. Ông ấy đã truyền cảm hứng cho bạn. Ông không chỉ là một giáo viên mà còn là một nhà lãnh đạo.
Ông ấy không nhất thiết làm cho việc học trở nên vui vẻ, nhưng ông ấy đã làm cho việc học trở nên khả thi và có mục đích. Dù bạn phục vụ trẻ em như một giáo viên, cha mẹ, huấn luyện viên, hay người hướng dẫn, bạn sẽ tăng hiệu quả của mình rất nhiều nếu bạn biết cách thúc đẩy động lực cho trẻ em và duy trì động lực đó trong suốt quá trình học.
Tuy
nhiên, có vẻ như giáo viên và phụ huynh ngày nay không có nhiều người có thể
truyền được động lực học tập cho học sinh hay con cái. Phần lớn họ có xu hướng
sử dụng cách tiếp cận “một kích thước phù hợp với tất cả” với học sinh của
mình, trong đó họ mong đợi tất cả trẻ em sẽ được thúc đẩy bởi cùng một lời khen,
giấy khen, danh sách kiểm tra hoặc hệ thống phần thưởng. Cách tiếp cận rộng rãi
này khiến nhiều trẻ em không có động lực và không có hứng thú. Trong khi đó
khoa học đã chỉ ra rằng, động lực là một hệ thống rất phức tạp và thường không
giống nhau ở những người khác nhau. Để thiết lập và duy trì động lực của một
con người, hoặc một lớp học đầy những con người, người ta phải hiểu sự phức tạp
vốn có trong quá trình tạo động lực phức tạp này.
Điều
quan trọng là người lớn phải tìm hiểu động lực là gì! Nhưng điều quan trọng không
kém là họ hiểu được động lực không phải là gì! Tôi vẫn chưa tìm thấy một
chương trình giảng dạy đại học hoặc sau đại học nào có thể giải quyết hiệu quả
khái niệm cơ bản này. Việc giáo viên không được đào tạo và tiếp xúc với những
nguyên lý cơ bản về động lực thời thơ ấu đã dẫn đến một đội ngũ giáo viên không
thể hiểu hoặc thực hiện các kỹ thuật tạo động lực hiệu quả.
Và
các bậc cha mẹ thì càng không!
Chính vì thế rất rất nhiều cha mẹ thay vì tạo động lực cho con, việc họ làm được, kết quả của những nỗ lực can thiệp của họ là triệt tiêu động lực của con.
5 lầm tưởng và quan niệm sai về động lực của học sinh
Tôi
nhận ra rằng hầu hết giáo viên và phụ huynh đều tuân theo những niềm tin sai lầm
và lung lay liên quan đến động lực. Những quan niệm sai lầm này phải được gác lại
trước khi chúng ta có thể áp dụng một cách tiếp cận mang tính động lực sáng suốt
hơn.
Sai lầm về động lực số 1: “Đứa trẻ đó không có động lực!”
Bất
kỳ giáo viên hoặc phụ huynh nào đưa ra tuyên bố này đều thể hiện sự thiếu hiểu
biết đáng buồn về bản chất thực sự của động lực học sinh. Chúng ta phải hiểu
nguyên lý cơ bản nhất về động lực của con người. Khái niệm này là nền tảng cho mọi
thực hành liên quan đến đông lực. Khái niệm đơn giản nhưng sâu sắc như sau: Mọi
hành vi của con người đều có động lực !
Mọi
hành vi mà chúng ta thể hiện vào bất kỳ ngày nào đều có động cơ. Nếu một độc giả
quyết định ngừng đọc bài viết này của tôi vào thời điểm này, tôi không thể khẳng
định rằng người đó “không có động lực”. Họ có động lực để ngừng đọc.
Nếu một người bạn của tôi ngừng gọi điện cho tôi hàng tuần, tôi không thể nói:
“Anh ấy không có động lực để duy trì tình bạn”. Đúng hơn là anh ấy có động lực
để chấm dứt mối quan hệ này.
Hãy
xem xét học sinh ngồi cuối lớp trong lớp toán tiết năm của bạn. Anh ta tựa đầu
vào bàn, không bao giờ tự nguyện trả lời và không tham gia vào các cuộc thảo luận
và trình diễn trong lớp. Người ta có xu hướng nói rằng “Đứa trẻ này không có động
lực”. Bạn sẽ sai. Đúng hơn là anh ta có động lực gục đầu xuống bàn, giữ im lặng
và không tham gia! Trên thực tế cậu ấy là người có động lực và thực
sự có thể là một trong những học sinh có động lực nhất trong lớp của bạn. Nhưng
động lực của anh không phải là học toán. Động lực của anh ấy tập trung vào việc
tránh thất bại, ngăn chặn sự thất vọng hoặc thậm chí chọc giận giáo viên.
Nếu
con bạn có thể ngồi giả vờ học từ 19h30 đến 21h30 mỗi tối một cách ngoan ngoãn
và nghiêm túc thì không phải anh ta không có động lực, anh ấy có động lực mãnh
liệt là tập trung vào việc không để bố mẹ nổi cáu, mắng mỏ hoặc trừng phạt anh ấy
vì cho rằng anh lười. Đông lực ấy giúp anh làm được việc rất khó đó là đóng kịch
hoặc vờ như đang học trong khi không nghĩ gì đến bài vở trước mặt mình.
Hồi
còn là học sinh cấp 1, tôi là đứa trẻ nhút nhát và sợ phải đứng lên trước lớp để
giới thiệu về mình hoặc hát đặc biệt là trong các dịp có dự giờ hoặc dịp đặc biệt
nào đó. Nỗi sợ đó lớn đến mức mỗi khi dịp đó sắp đến tôi lo lắng đến mất ăn mất
ngủ. Và thường tôi tìm cách tránh nó bằng cách làm cho mình “ốm” vào ngày đó.
Thông thường tôi “ốm thật” vì nỗi lo lắng mất ngủ nhưng cũng có lúc tôi phải làm
cho mình ốm bằng cách uống thật nhiều nước đá và phơi nắng nhiều hôm để “sốt” vào
lúc tôi cần. Rõ ràng tôi là một đứa trẻ có động lực mãnh liệt, sẵn sàng làm cả
những việc nguy hiểm chỉ để tránh phải đứng lên trước lớp và giới thiệu về mình.
Tất
nhiên không thể nói tôi là đứa trẻ “không có động lực học tập”. Vấn đề của tôi và
nhiều cậu bé như tôi không phải là thiếu động lực. Đúng hơn, đó là động lực sai
hướng.
Sai lầm về động lực số 2: "Đứa trẻ đó lúc có động lực, lúc không.
Niềm
tin rằng động lực là một thứ gì đó không nhất quán, nay có, mai không này nói
chung là không đúng sự thật. Lĩnh vực tâm lý học công nhận động lực là một hằng
số tương đối. Điều đó có nghĩa là: Động lực khá nhất quán và bền vững,
nhưng không phải luôn là như vậy ở mọi thời điểm. Nghĩa là, một cách tương đối,
nếu một đứa trẻ có động lực học toán thì nó sẽ có động lực học toán mọi lúc. Nếu
anh ta không có động lực học toán thì anh ta sẽ không có động lực học toán mọi
lúc.
Hiệu
suất, năng suất và sự tiến bộ của trẻ có thể thay đổi theo từng ngày, nhưng điều
này nhìn chung không phản ánh động lực không nhất quán. Hành vi này nhiều khả
năng phản ánh phong cách học tập không nhất quán và thường không thể
đoán trước của trẻ, chứ không phải là sự không nhất quán của động lực.
Một
sự so sánh thú vị và khá tương đồng và hữu ích để hiểu hơn về động lực: Hãy
thay “tình yêu” bằng “động lực”. Bạn yêu chồng bạn. Tình yêu đó là điều bất biến
trong cuộc sống của bạn và của anh ấy. Bây giờ, như trong bất kỳ cuộc hôn nhân
nào, có những ngày tốt đẹp hơn những ngày khác. Vào bất kỳ ngày nào, bạn có thể
tức giận hoặc khó chịu với anh ấy do tranh cãi hoặc bất đồng, nhưng bất chấp những
cảm xúc nhất thời này, bạn vẫn yêu anh ấy. Nếu anh ấy bị bệnh bất ngờ, bạn
sẽ giúp đỡ và chăm sóc anh ấy vì tình yêu này. Sự khó chịu chỉ là tạm thời;
tình yêu là vĩnh viễn. Thành tích và năng suất học tập kém chỉ là tạm thời; động
lực là vĩnh viễn.
Điều
quan trọng là phải hiểu và nắm bắt khái niệm này vì nó cung cấp cái nhìn sâu sắc
về sự thất vọng mà trẻ thường cảm thấy khi gặp khó khăn trong việc nắm vững
thông tin và kỹ năng mặc dù chúng có động cơ học tập.
Sai lầm về động lực số 3: Động lực đến từ phần thưởng
Rất
nhiều—có lẽ là hầu hết —cha mẹ và giáo viên cố gắng động viên trẻ bằng
cách thưởng cho chúng những phần thưởng như một sự khích lệ. Bố có thể hứa với con
100 nghìn cho mỗi điểm 10 mà cô ấy nhận được trong học bạ. Giáo viên trao thưởng
cái bút, vé số học tập… dựa trên kết quả làm bài tập về nhà của cô. Huấn luyện
viên bóng đá của cô ấy mua pizza cho đội sau một buổi luyện tập đặc biệt tốt. Mặc
dù những phản hồi này có mục đích tốt và thậm chí có thể có tác động tạm thời đến
hành vi của học sinh, nhưng chúng sẽ không cải thiện hoặc nâng cao động
lực của học sinh một chút nào.
Thực
tế là đã có nhiều nghiên cứu để khẳng định những sai lầm trong việc sử dụng phần thưởng, hối lộ như một cách tạo động lực: Trao phần thưởng nhằm
mục đích thúc đẩy động lực là hành vi sai trái của một kỹ thuật quản lý hành vi
được sử dụng rộng rãi được gọi là Nguyên tắc Premack. Chiến lược này thường được
gọi là Quy tắc của bà: Nếu bạn ăn rau, bạn sẽ nhận được món tráng miệng. Nếu bạn
làm X cho tôi, tôi sẽ cho bạn Y. Mặc dù kỹ thuật này có thể thay đổi hành vi của
trẻ nhưng nó sẽ không làm thay đổi được động cơ của trẻ. Học sinh có thể học tập
chăm chỉ ở trường để đạt điểm A và được thưởng tiền. Nhưng mục tiêu của cô không
phải là tiến bộ ở trường hay đạt được những kỹ năng mới. Mục tiêu của cô là
nhận được tiền.
Để
trở thành người tạo động lực hiệu quả, người ta phải hiểu sự khác biệt đáng kể
giữa động lực bên trong và động lực bên ngoài. Mục tiêu của chúng
tôi với trẻ em là nuôi dưỡng động lực lâu dài được truyền cảm hứng từ mong muốn
học hỏi và phát triển của các em. Hệ thống khen thưởng nhấn mạnh vào các biện
pháp khuyến khích hữu hình thực sự có thể làm giảm động lực về lâu dài.
Động
lực bên ngoài bao gồm các hệ thống hoặc chính sách khuyến khích đứa trẻ giành
được phần thưởng bằng cách cư xử theo cách khuyến khích học tập. Những hệ thống
này có thể phục vụ mục đích hữu ích và mang tính xây dựng bằng cách nhắc nhở trẻ
về các nội quy trong lớp học hoặc trong gia đình. Tuy nhiên, trẻ có thể trở nên
quá phụ thuộc vào những phần thưởng này và có thể không thể theo dõi hoặc đánh
giá hiệu suất của chính mình. Họ trở nên hoàn toàn phụ thuộc vào phần thưởng
khi cố gắng đánh giá sự tiến bộ hàng ngày của mình
Đối
với hầu hết chúng ta, tiền lương tạo thành động lực bên ngoài cho công việc
hàng ngày. Tuy nhiên, mong muốn phục vụ khách hàng, sinh viên, bệnh nhân, khách
hàng hoặc đồng nghiệp một cách hiệu quả chính là động lực nội tại của chúng ta.
Bạn chắc chắn sẽ rời bỏ công việc của mình nếu phần thưởng (lương) bên ngoài bị
cắt, nhưng chính phần thưởng (dịch vụ) bên trong mới thực sự thúc đẩy động lực
hàng ngày của bạn. Sự hài lòng của cá nhân đối với một công việc được hoàn
thành tốt là phần thưởng lớn nhất.
Tương
tự, động lực nội tại đến từ bên trong đứa trẻ. Động lực bên trong này sẽ truyền
cảm hứng cho đứa trẻ phát huy hết khả năng của mình cho dù có được khen thưởng
hay không. Việc học trở thành phần thưởng của chính nó. Những đứa trẻ có động lực
nội tại tin vào bản thân và khả năng của mình. Họ thích học tập và tự định hướng.
Họ không dựa vào sự chấp thuận hoặc tán thành của người khác để phát huy tiềm
năng của mình.
Điều
đó không có nghĩa là không nên trao phần thưởng và ưu đãi cho trẻ em. Một
chương trình khen thưởng được lên kế hoạch và thực hiện tốt có thể hữu ích
trong việc đáp ứng các mục tiêu ngắn hạn, điều chỉnh hành vi và đảm bảo sự hợp
tác của trẻ, nhưng chúng ta nên luôn lưu ý rằng động lực nội tại là mục
tiêu dài hạn của chúng ta.
Sai lầm về động lực số 4: Động lực đến từ cạnh tranh
Nhiều
nhà giáo dục hết sức lo ngại về hai phong trào xung đột và loại trừ lẫn nhau hiện
đang tác động đến lĩnh vực giáo dục. Đầu tiên là phong trào kiểm tra mang tính
quyết định cao, trong đó nhấn mạnh và đòi hỏi sự cạnh tranh gay gắt giữa học
sinh với học sinh trong lớp học của chúng ta. Thứ hai là phong trào hòa nhập,
trong đó nhấn mạnh việc xếp trẻ có vấn đề về học tập vào lớp với các bạn không
khuyết tật. Những chuyển động này giống như dầu và nước: Đơn giản là chúng
không trộn lẫn với nhau.
Nếu
trẻ em có nhu cầu đặc biệt được xếp vào các lớp giáo dục phổ thông, giáo viên cần
giảm nhẹ và giảm bớt việc sử dụng các hoạt động cạnh tranh vốn dĩ không công bằng.
Nếu các lớp học diễn ra sự cạnh tranh gay gắt, chúng ta cần loại bỏ những học
sinh có nhu cầu đặc biệt khỏi những môi trường đó vì chúng trở thành nạn nhân
trong học tập trong một hệ thống như vậy.
Các
cuộc khảo sát gần đây thực hiện tại các hệ thống trường
học cho thấy các hoạt động mang tính cạnh tranh trong lớp học
(trò chơi, câu đố, bài kiểm tra, cuộc thi…) chiếm gần 80% thời gian làm bài ở
trường tiểu học. Cho đến nay, đây là phương pháp tiếp cận lớp học được sử dụng
rộng rãi nhất. Giáo viên sử dụng sự cạnh tranh với niềm tin rằng nó thúc đẩy trẻ
em cố gắng hết sức. Tuy nhiên, nghiên cứu và kinh nghiệm dạy chúng ta rằng niềm
tin này là sai sự thật và vô căn cứ.
Thực
tế quan trọng và sâu sắc nhất về mối liên hệ giữa động lực và cạnh tranh là như
sau: Người duy nhất được thúc đẩy bởi cạnh tranh là người tin rằng mình có
cơ hội chiến thắng.
Vì
vậy, nếu một giáo viên lớp 4 quyết định sử dụng cuộc thi, câu đố và trò chơi để
dạy chính tả thì cô ấy đang động viên ai? Những người đánh vần giỏi. Những học
sinh đã có động lực trong lĩnh vực kỹ năng này. Những người đánh vần đang gặp
khó khăn - những người sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ việc tăng thêm động lực -
không bị kích thích hay tiếp thêm sinh lực bởi những hoạt động này.
Có một số quan niệm sai lầm phổ biến về mối liên hệ mong manh giữa động lực và cạnh tranh rằng: Hầu hết mọi người đều làm việc tốt nhất khi tham gia vào cuộc cạnh tranh trực tiếp với những người khác.
Niềm tin được phổ biến rộng rãi này đơn giản là không đúng sự thật. Để chứng minh điều này, tôi thường yêu cầu khán giả suy ngẫm về một trong những sự kiện thể thao thường niên ở nước ta: giải marathon vnexpress. Mỗi vận động viên marathon tham gia cuộc đua với nhận thức đầy đủ rằng sẽ chỉ được trao hai giải thưởng khi hoàn thành cuộc đua. Một giải thưởng dành cho người đàn ông về đích đầu tiên và giải thứ hai thuộc về người phụ nữ đầu tiên hoàn thành cuộc đua. Hai mươi nghìn người chạy…hai giải thưởng.
Hãy
suy ngẫm một chút về câu hỏi này trước khi trả lời: Có bao nhiêu vận động viên
tham gia cuộc đua marathon với hy vọng giành chiến thắng trong cuộc đua? Tất cả
bọn họ? Hầu hết trong số họ? Nhiều người trong số họ? Vài người trong số họ?
Tôi
xin thưa với bạn rằng chỉ có 20 hoặc 30 vận động viên chạy đẳng cấp nhất
đến với các cuộc thi marathon đến với cuộc thi hàng nhiều chục nghìn người với
niềm mong đợi và hy vọng rằng họ sẽ giành được vòng nguyệt quế mà họ hằng mơ ước.
Vậy mấy chục nghìn người còn lại, họ đang thi đấu với ai?
Câu
trả lời là: Họ thi đấu với chính họ! Cuộc đua là cạnh tranh với chính bản thân
mình!
Chúng
ta làm việc tốt nhất khi cạnh tranh với chính mình chứ không phải chống lại người
khác.
Với
tư cách là nhà giáo dục và phụ huynh, chúng ta phải giảm bớt sự cạnh tranh và
nhấn mạnh khái niệm “tốt nhất của cá nhân”. Chúng ta nên khuyến khích học sinh
liên tục phấn đấu để cải thiện thành tích của bản thân và bớt bận tâm đến việc
so sánh bản thân với người khác.
Thật
không may, hầu hết các trường đều nhấn mạnh những điều tốt nhất và dành
các giải thưởng, bằng khen, chứng chỉ và phần thưởng cho những sinh viên có kỹ
năng nhất. Cách làm này có tác động tiêu cực đến những đứa trẻ gặp khó khăn
trong học tập vì chúng không bao giờ có cơ hội “tỏa sáng”.
Hầu
hết cha mẹ và giáo viên có thể nói rằng: Ngoài
kia là một thế giới rộng lớn và tồi tệ và chúng ta cần chuẩn bị cho trẻ em bước
vào thế giới người lớn đầy cạnh tranh?
Có
một số sai sót trong lập luận đó.
Đầu
tiên, Đó là những đứa trẻ nhỏ có khi chỉ 6-11tuổi với cấp 1 và 12-15 tuổi với cấp
2! Anh ấy sẽ không bước vào “thế giới thực” trong hàng chục năm nữa. Chẳng phải
là hơi sớm để bắt đầu chuẩn bị cho anh ta đi làm bằng cách biến lớp học lớp 4 của
anh ta thành bản sao của phòng họp ở một tập đoàn lớn hay sao?
Thứ
hai: Hầu hết các tình huống việc làm đều không có tính chất cạnh tranh. Cái
cần thiết ở môi trường làm việc hơn, ngược lại là kỹ năng hợp tác!. Trên thực tế,
nếu nơi làm việc mà có tính cạnh tranh như các lớp học thì kết quả chắc chắn sẽ
là tinh thần làm việc của người lao động thấp. Hầu hết nhân viên bị mất việc đều
bị sa thải vì thiếu động lực, kỹ năng giao tiếp cá nhân kém, kém năng lực hoặc
do các áp lực kinh tế mang tính chu kỳ. Lời cảnh báo thường được lặp đi lặp lại
với trẻ em rằng “khi lớn lên, con sẽ mất việc nếu không thể cạnh tranh” đơn giản
là sai.
Chìa
khóa thành công ở nơi làm việc là năng lực, tính hợp tác và động lực chứ
không phải khả năng cạnh tranh.
Thứ
ba: trong lập luận về “thế giới thực” là cuộc thi mà chúng ta sử dụng trong trường
học hoàn toàn khác với cuộc thi mà học sinh sẽ phải đối mặt khi trưởng thành.
Có hai tiêu chí đặc trưng cho sự cạnh tranh trong thế giới người lớn. Đầu tiên,
khi trưởng thành, bạn chỉ cạnh tranh khi bạn chọn cạnh tranh! Tôi không
bị yêu cầu hoặc bị ép buộc phải tham gia một giải đấu gôn, tham gia một giải đấu
quần vợt hoặc nộp đơn xin việc mới trừ khi tôi muốn làm như vậy. Thứ hai, khi
người lớn cạnh tranh, họ cạnh tranh với những người cùng trang lứa (có nền
tảng, đào tạo, kinh nghiệm và mối quan hệ tương tự).
Điều
quan trọng cần nhớ là cạnh tranh là một hành vi có thể học được. Hầu hết trẻ mẫu
giáo đều có tính hợp tác cao. Tuy nhiên, văn hóa cạnh tranh trong lớp học thường
triệt tiêu mong muốn tự nhiên của họ là được làm việc cùng nhau.
Sai lầm về động lực số 5: Đông lực đến từ sự trừng phạt
Nhiều
người lớn cố gắng động viên trẻ bằng cách trừng phạt chúng. Trong hầu hết các
trường hợp, đây là giải pháp không hiệu quả và ngắn hạn cho vấn đề động lực. Trái lại sự sợ hãi là yếu tố làm triệt tiêu động lực mạnh mẽ nhất. Có
một số lý do khiến hình phạt không có tác dụng.
Nhiều
đứa trẻ, đặc biệt là những đứa có tiền sử học tập khó khăn, đã bị trừng phạt đủ
rồi. Phần lớn họ miễn dịch và không nhạy cảm với phương pháp này. Vào thời điểm
đứa trẻ khuyết tật học tập bước vào lớp năm của bạn, bạn gần như không thể nghĩ
ra một hình phạt nào chưa áp dụng cho nó. Anh ta đã bị mất giờ ra chơi, bị thu
hồi đặc quyền, viết những vi phạm của mình mười nghìn lần và đứng bên ngoài văn
phòng hiệu trưởng trong vô số giờ. Tất cả những hình phạt này không giúp nâng
cao động lực của anh ta, vì vậy có lẽ chúng ta nên điều tra các phương pháp
thay thế.
Hình
phạt không có tác động lâu dài đến động cơ của trẻ vì hình phạt chỉ có hiệu lực
khi có mối đe dọa trừng phạt. Giả sử bạn đến muộn trong một cuộc hẹn quan trọng
và bạn đang phóng nhanh trên đường cao tốc với tốc độ vượt quá giới hạn quy định.
Khi bạn vượt qua đỉnh đồi, bạn sẽ thấy một chiếc tàu tuần dương của cảnh sát đậu
trên lề đường cách đó vài trăm thước. Bạn ngay lập tức đạp phanh và thừa nhận tốc
độ giới hạn. Bạn không giảm tốc độ vì một sự giác ngộ bất ngờ khiến bạn nhận ra
trách nhiệm của mình là phải tuân thủ luật đường cao tốc. Đúng hơn là bạn giảm
tốc độ vì không muốn bị phạt. Ngay khi bạn không còn nhìn thấy chiếc tàu tuần
dương trong gương chiếu hậu, bạn sẽ tiếp tục chạy quá tốc độ.
Nếu
bạn là giáo viên hoặc phụ huynh kiểm soát hoặc “động viên” trẻ em bằng cách
liên tục trừng phạt chúng, bạn phải hiểu rằng chúng chắc chắn sẽ bắt đầu cư xử
không đúng mực ngay khi bạn rời khỏi phòng hoặc quay lưng lại, vì mối đe dọa trừng
phạt không tồn tại. Họ cư xử và biểu diễn chỉ khi bạn đang xem. Những bậc cha mẹ
và giáo viên như vậy nên cân nhắc việc trả lương chiến đấu cho người giữ trẻ và
giáo viên thay thế của họ!
Một
lý do khác khiến hình phạt là một động cơ không hiệu quả là trẻ em có xu hướng
liên kết hình phạt với người trừng phạt chứ không phải với hành vi phạm tội.
(“Hôm nay thầy Stewart đã lấy đi giờ ra chơi của tôi.” Do đó, việc trừng phạt
liên tục có tác động tiêu cực đến mối quan hệ của bạn với một đứa trẻ và mối
quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh là nền tảng. để tăng cường động lực.
Tất nhiên, có những thời điểm và tình huống mà hình phạt là phù hợp và hiệu quả.
Nhưng hình phạt không có tác dụng thúc đẩy trẻ nỗ lực lâu dài.
Lời
kết:
Mở khóa động lực học tập của học sinh là một việc làm khó khăn, cần sự hợp tác
của nhiều người và cần kiên nhẫn tối đa. Nhiều giáo viên và phụ huynh mỗi ngày
vẫn thực hành những biện pháp thúc đẩy trẻ em học tập trên cơ sở những hiểu biết
sai lầm về bản chất của động lực. Đôi khi chúng ta làm bởi sự thôi thúc, mình
phải làm một cái gì đó chứ không hẳn vì hiệu quả của nó. Chính vì thế, việc xóa
bỏ những niềm tin sai lầm về động lực là việc đầu tiên cha mẹ cần làm, mặc dù tôi
biết, bố mẹ chúng ta rất lười đọc các bài viết như thế này. Nhưng nó xứng đáng để
bạn bỏ thời gia ra để đọc: Đọc vì con của bạn. Hãy nhớ câu nói của tổng thống vĩ
đại Mỹ, dù là tổng thống nhưng ông luôn coi việc giáo dục con cái là công việc
quan trọng nhất đời: "Làm việc gì đó. Nếu nó hiệu quả, hãy làm nhiều hơn nữa.
Nếu không… hãy làm việc khác.” -TỔNG THỐNG ROOSEVELT
Comments
Post a Comment
Hãy để lại ý kiến của bạn tại đây