Hại con bằng những lời khen cẩu thả

hại trẻ bằng ngợi khen


Bài viết nằm trong series 12 bài viết thuộc chủ đề: Cách ngăn cản con chúng ta trưởng thành. 

Ngày nay, khi gia đình nhỏ hơn, điều kiện kinh tế tốt hơn, khả năng tiếp cận với thông tin và lối sống ở các nước phát triển dễ dàng hơn, cha mẹ Việt nam ngày càng quan tâm đến chăm sóc nuôi dưỡng con về tinh thần. Điều dễ nhận thấy nhất là sự thay đổ về hành vi khen ngợi con cái, điều mà trước kia rất hiếm trong các gia đình ở nước ta.

    Khen ngợi (praise) là một hình thức giao tiếp xã hội biểu lộ sự công nhận, đảm bảo hoặc ngưỡng mộ. Khen ngợi được thể hiện bằng lời nói cũng như bằng ngôn ngữ cơ thể (biểu hiện khuôn mặt và cử chỉ)Khen ngợi làm cho mọi người ở mọi lứa tuổi cảm thấy dễ chịu, và trong thời thơ ấu, các chuyên gia nói rằng nó có thể nâng cao lòng tự trọng của con bạn, tăng sự tự tin và chỉ cho chúng cách suy nghĩ và nói về bản thân theo những cách tích cực. Các chuyên gia cũng nói rằng lời khen ngợi có thể giúp con bạn học cách nhận ra những thành công của chúng và chúc mừng chúng vì đã hoàn thành tốt công việc, đồng thời nó cũng có thể có tác dụng tạo động lực cho tương lai. Có 3 mục tiêu được đề cập thường xuyên nhất là lý do thúc đẩy chúng ta khen ngợi con cái là: mong muốn con nâng cao hiệu suất (học tập, thành tích, v.v.), thúc đẩy hành vi phù hợp hoặc các giá trị tích cực và giúp con cái chúng ta cảm thấy hài lòng về bản thân.

    Một xã hội lạm phát sự ngợi khen

    Mọi người đều đồng ý rằng trẻ em cần được ngợi khen và khuyến khích. Trên thực tế, tất cả chúng ta đều cần nó. Khích lệ, ngợi khen là dưỡng khí cho lòng tự trọng, là súp gà cho tâm hồn. Mong muốn con cái chúng ta có mọi lợi thế có thể, chúng ta muốn chúng nhận được nhiều sự khích lệ. Đây là lý do tại sao rất nhiều người trong chúng ta đã hết lời khen ngợi con mình, khen ngợi mọi hành động của chúng và khẳng định mọi đặc điểm có thể tưởng tượng được. Đây là một sự thay đổi lớn so với các thế hệ cha mẹ và con cái trước đây, nơi hiếm khi được khen ngợi và con cái không phải là trung tâm của gia đình. Trước kia, ở thế hệ 7x chúng tôi, mỗi khi ai đó khen con lập tức bị dè bửu: “mèo khen mèo dài đuôi”, “con hát mẹ khen hay”.. Mỗi khi ai đó khen con mình, các ông bố đều xua tay “ở nhà nhất mẹ nhì con thôi ạ”… Giờ đây con lắc đã lệch sang phía bên kia và chúng ta không nhận ra nó đã tác động đến nền văn hóa của chúng ta như thế nào. Việc khen ngợi, khen thưởng quá mức trẻ em đã trở thành một chủ đề gây tranh cãi ngày nay.

    Khen ngợi đã trở nên trên mức phổ biến: Ca ngợi và khẳng định đã trở nên quá phổ biến, chúng đã đánh mất giá trị đích thực của chúng. Trong mỗi gia đình các ông bố bà mẹ luôn miệng “con thật xinh đẹp”, “con thật tuyệt vời” “gia đình tự hào về con” Bố mẹ trở thành những người nghiện khen con. Ở lớp học cô giáo luôn miệng khen “em giỏi lắm” “con anh chị rất có triển vọng”. Cô giáo nghiện khen ngợi như một cách để khẳng định sự mẫn cán. Trường học nghĩ ra mọi mỹ từ, uyển ngữ và cách thức để khen tặng giấy khen cho học sinh. Nhà trường nghiện khen ngợi như là một hình thức quảng bá thành tích. Trên sân thể thao các huấn luyện viên khen tấ cả các cầu thủ nhí là “messi việt nam trong tương lai”, ban văn nghệ nhận xét các cháu có thể thành ca sỹ chuyên nghiệp… Kết thúc năm học, facebook là nơi khoe giấy khen của các gia đình và nhà trường. Cả xã hội nghiện ngợi khen và tất nhiên học sinh cũng là con nghiện. Không có giấy khen giờ là minh chứng cho sự thất bại nặng nề.

    Nội dung ngợi khen ngày càng bất cẩn: Ngoài việc tăng số lượng lời khen ngợi, chúng tôi đã trở nên hơi bất cẩn với nội dung. Không cần suy nghĩ, chúng ta đưa ra những nhận xét liều lĩnh, tâng bốc khiến chúng ta cảm thấy hài lòng vào lúc này nhưng điều đó có thể khiến trẻ đi sai hướng. Sự tâng bốc đó có thể tập trung vào trí thông minh, ngoại hình hoặc tài năng của con trẻ—và thực sự có thể gây hại nhiều hơn là có lợi. Khi chúng ta khẳng định ngoại hình hay quần áo - những vấn đề bên ngoài thay vì những đức tính bên trong - giá trị của trẻ em trở nên lệch lạc. Hãy nhớ rằng, những gì được khen thưởng sẽ được lặp lại. Không nhận ra điều đó, chúng tôi đang củng cố các đặc tính “mỹ phẩm”—thường là các đặc tính không nằm trong tầm kiểm soát của con trẻ. Người lớn thường tiếp tục rơi vào cái bẫy ca ngợi những phẩm chất cố định, nghĩ rằng chúng ta nên liên kết những đặc điểm mong muốn với danh tính của con trẻ.

    Bạn thông minh. Bạn thật đẹp. Bạn có năng khiếu. Bạn sắc sảo, tất cả đều là những phẩm chất cố định, những đặc tính không kiểm soát được lại là những thứ được cha mẹ mang ra tụng ca nhiều nhất. Lẽ ra chúng ta nên làm điều ngược lại. Chúng ta phải khẳng định nỗ lực và hành vi nằm trong tầm kiểm soát của họ thay vì những đặc điểm nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Nếu làm được điều này, chúng ta bắt đầu nuôi dưỡng tư duy phát triển thay vì tư duy cố định. Khẳng định rằng họ thông minh (tư duy cố định) sẽ nuôi dưỡng suy nghĩ “Tôi thông minh. Đó là con người của tôi, vì vậy tôi không cần phải cố gắng nhiều.

    Chúng ta đang khen sai cách

    Ta ca ngợi những điều không đáng, không cần hoặc không nên ngợi khen

    Thự tế là chúng ta đang trở thành những người nghiện khen ngợi khi làm cha mẹ. Chúng ta đã đi đến một thái cực đối lập của vài thập kỷ trước, khi cha mẹ có xu hướng nghiêm khắc hơn . Và bây giờ chúng ta khen ngợi con mình quá mức.” Không chỉ có vậy, và cũng có lẽ do nghiện mà những lời khen ngày càng cẩu thả, thậm chí vô lý, giả dối. Dưới đây xin nhắc đến những kiểu khen phổ biến

    -         Chúng ta ca ngợi các tính năng cố định.

    Nói với những đứa trẻ của chúng ta, “Con thông minh đấy,” hoặc “Con xinh đấy,” hoặc “Con có năng khiếu đấy,” dường như là cách hoàn hảo để khẳng định danh tính của chúng. Trên thực tế, đó chính xác là cách để hủy hoại chúng. Sẽ tốt hơn nhiều nếu khẳng định nỗ lực hoặc đức tính mà họ có thể chọn để thực hành. Thêm về điều này sau.

    -         Chúng tôi khen ngợi một cách dễ dãi và cẩu thả.

    Tôi thấy nhiều bậc cha mẹ khen ngợi con cái của họ mà không cần suy nghĩ. Trẻ em được khen là chúng rất xuất sắc khi vẽ một bức tranh, giành chiến thắng trong một trận bóng, đạt điểm cao, rót đồ uống mà không làm đổ hoặc một số hoạt động thông thường khác. Các bậc cha mẹ nghĩ rằng bằng cách dành cho trẻ nhiều lời khen ngợi, họ đang xây dựng cho trẻ sự tự tin và ý thức về bản thân, trong khi thực tế có thể họ đang làm điều ngược lại. Họ có thể đang làm giảm nó. Lời khen ngợi bất cẩn trở nên sáo rỗng và ít ý nghĩa theo thời gian.

    -         Lời khen ngợi của chúng ta không phù hợp với hiệu suất của con

    Chúng ta sống trong một thế giới cường điệu. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi phải phóng đại để được lắng nghe. Vì vậy , chúng tôi sử dụng những từ như tuyệt vời hoặc xuất sắc khi những đứa trẻ của chúng tôi chỉ làm được những gì được mong đợi ở chúng. Chúng tôi cung cấp lời khen ngợi lớn cho nỗ lực tối thiểu. Khi con cái chúng ta lớn lên, việc kết hợp lời khẳng định với nỗ lực trở nên đặc biệt quan trọng. Không quá ít, nhưng không quá nhiều. Đây là cách xây dựng lòng tin và đó là lý do tại sao trẻ tiếp tục nghe lời cha mẹ trong những năm tuổi thiếu niên. Bằng cách nào đó, các bậc cha mẹ tin rằng bằng cách khen ngợi con cái, họ sẽ nâng cao lòng tự trọng của chúng . “Mặc dù có thiện chí, nhưng việc đặt trẻ lên bệ đỡ ngay từ khi còn nhỏ thực sự có thể cản trở sự phát triển của chúng.”

    Con cái chúng ta được gì từ những lời khen ngợi

    Ngợi khen có nhiều mục đích, kể cả những mục đích làm lợi cho người khen, ở đây tôi chỉ đề cập đến những lời khen có động cơ trong sáng, vì lợi ích của người được khen, hãy xem con ta nhận được gì. Hãy để tôi liệt kê những gì con có thể nhận được từ những lời khen cẩu thả.

    Khen ngợi có thể làm giảm động lực.

    Các nhà nghiên cứu tại Đại học Columbia phát hiện ra rằng khi những đứa trẻ được khen ngợi về trí tuệ thay vì sự chăm chỉ, chúng có xu hướng mất động lực nếu chúng thực hiện kém trong một bài kiểm tra hoặc dự án. Những đứa trẻ này hoạt động theo giả định sai lầm rằng chúng làm tốt chỉ vì chúng thông minh chứ không phải vì chúng học tập hay làm việc chăm chỉ. Khi chúng ta khen ngợi con mình về những đặc điểm vốn có mà chúng không thể kiểm soát được, chẳng hạn như sắc đẹp, trí thông minh hay thể thao, chúng sẽ cho rằng chúng không cần phải cố gắng nhiều. Hơn nữa, sớm hay muộn, những đặc điểm này có thể phai nhạt.

    Khen ngợi có thể làm tăng lòng tự ái.

    Nghiên cứu về phong trào lòng tự trọng đã đưa ra một số khám phá thú vị. Tiến sĩ Roy Baumeister, người ủng hộ hàng đầu cho nghiên cứu về lòng tự trọng, đã thừa nhận dữ liệu là nỗi thất vọng lớn nhất trong sự nghiệp của ông. Ông kết luận rằng lòng tự trọng không giúp cải thiện điểm số, thăng tiến nghề nghiệp hoặc giảm bạo lực. Giờ đây, ông kết luận rằng lời khen ngợi dành cho sinh viên đại học thực sự khiến điểm số bị giảm xuống. Đáng buồn thay, chúng tôi đã học được rằng sự khẳng định liên tục tạo ra lòng tự ái, không phải lòng tự trọng. Chúng ta bắt đầu nuôi dạy những đứa trẻ chỉ quan tâm đến bản thân thay vì đủ an toàn để hướng ngoại và đồng cảm với người khác.

    Khen ngợi có thể tạo ra sự bất an.

    Cũng bởi ta không hiểu thấu đáo về lòng tự trọng, không phân biệt được nó với tự hào, tự ái, tự tôn, tự ti nên ta có một niềm tin theo đám đông. Cha mẹ thường cho rằng khen ngợi thường xuyên sẽ xây dựng lòng tự trọng của trẻ, nhưng đôi khi điều ngược lại mới đúng. Lòng tự trọng thực sự là một phẩm chất bên trong xuất phát từ việc làm chủ các nhiệm vụ khó khăn và có những đóng góp có ý nghĩa. Cảm giác tự hào bên trong của một đứa trẻ về một công việc được hoàn thành tốt có ý nghĩa hơn bất kỳ danh tiếng nào từ nguồn bên ngoài.

    Nếu bạn liên tục khen ngợi con mình, trẻ có thể cần và mong đợi sự chấp thuận, ghi nhận của bạn, thay vì học cách đánh giá thành công cho chính mình. Những đứa trẻ nghiện khen ngợi sẽ trở nên bất an và lo lắng nếu chúng không được khen ngợi sau mỗi thành công tích cực.

    Khen ngợi có thể khiến trẻ thay thế sự chú tâm.

    Khi trẻ liên tục được khen thưởng cho những nỗ lực của mình, chúng có thể coi phần thưởng quan trọng hơn trải nghiệm. Giấy khen, phần thưởng, huy hiệu hay những lời khen thưởng tôn vinh phổ biến khác thay thế giá trị nội tại của trải nghiệm. Những niềm vui, sự háo hức từ động lực nội tại của học tập giờ bị thay thế bởi động lực bên ngoài là ngợi khen và phần thưởng và khi động lực bên ngoài mất đi hoặc đơn giản là không tăng lên, nỗ lực cũng sẽ hết. Ví dụ, mỗi khi con đọc sách, con sẽ được khen, được thưởng, con sẽ đọc sách vì phàn thưởng, vì để được ghi nhận là ngoan chứ không vì niềm yêu thích văn chương hay khám phá của mình.

    Ngợi khen có thể gây nhầm lẫn danh tính.

    Điều quan trong nhất trong quá trình trưởng tahnhf à hình thành khái niệm bản thân, hay nói cách khác là hình thành hiểu biết chính xác “Tôi là ai”. Thật đáng buồn quá trình này bị bóp méo, bị sai lệnh bởi những lời khen. Sự thật là, với hàng đống lời khen ngợi, trẻ em rất khó phân biệt được điều gì phù hợp với mình và điều gì không. Khi lớn lên, họ thường nhận ra rằng mẹ là người duy nhất nói với họ rằng họ thật tuyệt vời, và họ bắt đầu đặt câu hỏi về sự phán xét của mẹ. Hơn nữa, thanh thiếu niên tin rằng giáo viên khen ngợi những người cần khen ngợi — đó không phải là dấu hiệu bạn đã làm tốt mà là bạn thiếu khả năng. Họ nhận ra tâm lý của tất cả. Hơn nữa, nếu trẻ được khen là thông minh, chẳng hạn, chúng có xu hướng so sánh mình với người khác hơn là chuẩn bị cho bài kiểm tra tiếp theo. Họ cảm thấy mệt mỏi với thứ hạng của mình.

    Thật đáng buồn nếu như đến 20 tuổi bạn mới nhận ra rằng bạn không giỏi âm nhạc như mẹ bạn khen, để rồi ngụp lặn trong quá trình cố thành nhạc sỹ không lối thoát. Đến 25 tuổi bạn nhận ra mình không thể viết một câu chuyện chỉ để đăng báo chứ chưa nói đến bạn là một nhà văn thiên tài như bố bạn ngợi ca. Sẽ là một thất bại chí mạng nhất nếu đến 40 tuổi bạn vẫn loay hoay không thể định nghĩa nổi chính mình và để hành trình tìm danh tính của kéo dài dường nhưu không có điểm đến cũng bởi những lời khen cẩu thả lúc thiếu thời…

    Khen như thế nào cho đúng

    Vậy có giải pháp nào để hướng học sinh tốt hơn đến sự trưởng thành lành mạnh và có trách nhiệm không? Vâng có!

    Hãy ngợi khen con cái chúng ta với những nguyên tắc sau đây

    Nguyên tắc 1. Đừng khen người làm việc, chỉ khen việc người làm.

    Sẽ ít có khả năng có khoảng cách giữa những gì ai đó nghe được và những gì anh ta nghĩ về bản thân nếu chúng ta không đưa ra những nhận xét sâu rộng về con người của anh ta. “Quá nhiều đánh giá tích cực mang tính toàn cầu... rèn luyện cho trẻ em tư duy toàn cầu, coi bản thân chúng là vấn đề trong bất cứ việc gì chúng làm, và do đó có xu hướng vừa tự cao vừa tự coi thường bản thân,” như một bác sĩ tâm lý trẻ em nhìn nhận. Nói điều gì đó về những gì người đó đã làm (hoặc đang làm) sẽ có ý nghĩa hơn: "Đó là một câu chuyện thực sự hay" sẽ tốt hơn là "Bạn thật là một nhà văn giỏi." “Bức tranh này thật sắc nét” sẽ tốt hơn là “bạn là một họa sỹ cừ”

    Nguyên tắc 2. Hãy khen ngợi càng cụ thể càng tốt.

    Chúng ta không chỉ nên tập trung vào hành động hoặc sản phẩm mà còn nên làm như vậy bằng cách kêu gọi sự chú ý đến các khía cạnh cụ thể mà chúng ta cho là đặc biệt đổi mới hoặc đáng được chú ý. Điều này "cho phép người nhận đánh giá xem các tiêu chuẩn của người đánh giá có phù hợp hay không" và nó kéo anh ta vào chính nhiệm vụ hơn là tập trung sự chú ý của anh ta vào sự thật về sự chấp thuận của chúng tôi. Cách tốt hơn để khen câu chuyện con bạn viết "Đó là một câu chuyện thực sự hay" là "Cuối cùng thì thật tuyệt khi bạn để nhân vật chính hơi đã giải quyết được vấn đề của mình”..

    Nguyên tắc 3. Tránh khen ngợi giả tạo. Cha mẹ hoặc giáo viên thực sự vui mừng—hoặc đánh giá cao—điều gì đó mà trẻ đã làm nên thoải mái thể hiện sự phấn khích đó. Khen ngợi trở nên bị phản đối khi nó rõ ràng không phải là một biểu hiện tự phát mà là một chiến lược có chủ ý, một mánh lới quảng cáo dường như đã được chọn từ một cuốn sách hoặc hội thảo. Khi chúng ta được hướng dẫn "bắt mọi người làm điều gì đó đúng" và khen ngợi họ vì điều đó, hoặc thậm chí thực hành khen ngợi người khác, chúng ta đang được dạy về một kỹ thuật. Kết quả là không thể tránh khỏi giả tạo. Tuy nhiên, có một số dấu hiệu có thể cho thấy đó là một lời khen giả tạo, chẳng hạn như:

    Lời khen quá đáng hoặc không phù hợp với tình huống.

    Lời khen chỉ tập trung vào những điều bề ngoài hoặc không quan trọng.

    Lời khen được đưa ra khi không cần thiết hoặc không mong đợi

    Lời khen được lặp lại nhiều lần hoặc được dùng cho nhiều người khác nhau.

    Lời khen có ý định ẩn hoặc đi kèm với một yêu cầu. Ví dụ: “Bạn rất giỏi tiếng Anh!” khi người kia muốn bạn giúp họ làm bài tập.

    Ngoài ra, bạn cũng có thể chú ý đến cử chỉ, giọng nói và biểu hiện khuôn mặt của người khen để xem họ có chân thành hay không.

    Nguyên tắc 4. Tránh khen ngợi để tạo ra sự cạnh tranh.

    Khen ngợi ai đó bằng cách so sánh cô ấy với người khác không bao giờ là một ý hay. Những cụm từ như "Bạn là người giỏi nhất trong lớp" (hoặc đối với người lớn, "...trong khoa này") nên bị loại khỏi vốn từ vựng của chúng ta. Nghiên cứu cho thấy khá rõ ràng rằng những bình luận như vậy làm suy yếu động lực nội tại, nhưng tác động nguy hại nhất của chúng lại tinh vi hơn: chúng khuyến khích cách nhìn nhận người khác như những đối thủ hơn là những cộng tác viên tiềm năng. Hơn nữa, chúng khiến mọi người thấy được giá trị của bản thân về việc liệu họ có đánh bại được những người khác hay không—một công thức dẫn đến sự bất an vĩnh viễn.

    Phụ lục

    Nếu những nguyên tắc khiến bạn khó áp dụng, hãy áp dụng những điều cụ thể sau khi ngợi khen

    1. Khen họ vì sự nỗ lực, không phải vì sự thông minh hay vẻ đẹp của họ.

    2. Khen thưởng những đức tính tốt của nhân vật (chẳng hạn như sự trung thực) hơn là thành tích—ngay từ đầu.

    3. Dạy họ tận hưởng quá trình (hành trình) cũng như sản phẩm.

    4. Đảm bảo rằng mức độ và nội dung khen ngợi của bạn phù hợp với nỗ lực của họ.

    5. Hãy chắc chắn rằng lời khẳng định của bạn là chân thành, chu đáo và xác thực.

    6. Trao quyền cho họ bằng cách giúp họ sở hữu một bộ giá trị cá nhân để sống theo.

    7. Xác định và khẳng định những đặc điểm độc đáo giúp con bạn khác biệt.

    8. Cung cấp kinh nghiệm để họ khám phá và xây dựng thế mạnh chính của mình.

    9. Cung cấp một nền tảng để họ phục vụ người khác bằng cách sử dụng sức mạnh và tài năng của họ.

    10. Nói với họ rằng bạn thích xem họ biểu diễn bất kể kết quả thế nào.

    11. Họ càng trẻ, bạn càng phải phản hồi ngay lập tức cho họ.

    12. Trang bị cho họ cách chấp nhận rủi ro và học được rằng thất bại cũng không sao miễn là họ đã cố gắng.

    13. Xây dựng một ngôi nhà an toàn cho họ nhưng không xoay quanh họ.

    14. Khi nghi ngờ, hãy luôn khen ngợi những gì trong tầm kiểm soát của họ.

    15. Làm rõ tình yêu vô điều kiện của bạn dành cho họ bất kể hiệu suất của họ như thế nào.

    Nếu thưc sự bạn không làm được những điều đó, xin hãy đừng khen ngợi. Có đôi lúc không làm lại là việc tốt nhất có thể làm.

    Bạn có quan điểm gì về vấn đề này, hãy comment để cùng Hải trao đổi nhé!

     


    Comments